Lần đầu tiên Kiên cảm thấy sức mạnh
bí ẩn của mệnh trời soi rọi trong anh không phải là trong chiến tranh mà vào những
ngày mới hòa bình khi anh tham gia đoàn thu nhặt hài cốt từ sĩ. Sức mạnh đó từng
nhói lên trong anh, thôi thúc anh vượt qua bao hoàn cảnh tối tăm của đời sống
thời bình, nó nuôi giữ lòng tin, lòng ham sống, tình thương yêu. Anh chưa bao
giờ hiểu được, thậm chí chưa bao giờ cảm nhận nổi thiên mệnh ấy, chỉ biết nó tồn
tại trong anh âm thầm bí ẩn êm ả và đau đớn một cách không thể nhận thức được.
Tuy nhiên theo dần năm tháng tâm hồn anh càng ngày càng chín muồi hơn cái khát
vọng thể hiện thiên chức thiêng liêng huyền bí của đời mình, chí li thì cũng nắm
bắt được nó, gọi được nó lên thành lời.
Vào một mùa hè cách đây đã dăm năm,
trên đường lãng du, Kiên tình cờ láng qua thị trấn Nhã Nam, và cũng hoàn toàn
do tình cờ thôi mà từ thị trấn anh đã rẽ vào thăm Đồi Mơ, xóm nhỏ ngày xưa. Hai
mươi năm về trước, tiểu đoàn tân binh của anh đã chốt ở vùng này ba tháng trời,
huấn luyện và an dưỡng, chờ ngày lên đường "đi Bê dài". Tuy nhiên dường
như chưa một ngày nào của hai chục năm trường ấy đã trôi qua. Cảnh vật y nguyên
như thể bị thời gian bỏ sót. Những đồi thông, đồi sim mua, đồi cỏ giành giành,
cỏ đuôi chồn, những rừng dẻ, rừng bạch đàn quạnh vắng, đìu hiu, nhà cửa thưa thớt,
mỗi đồi một nhà và vẫn buồn thảm không khác gì xưa. Không định trước, Kiên rời
đường cái rẽ vào đường rất mỏng chìm trong cỏ vòng quanh Đồi Mơ tìm đến túp nhà
của mẹ Lành, mẹ nuôi của bọn anh, ba đứa trong tổ tam tam ngày ấy. Túp nhà vẫn
đó và hệt như thuở ấy: tường đất, mái gianh, với mảnh sân hẹp và khoảng vườn um
tùm cỏ. Bên thềm giữa những bụi cây hoang tàn cái giếng nước với cái ròng rọc
kêu ken két vẫn đấy Mẹ nuôi của anh đã qua đời. Bây giờ một mình một bóng sống
trong túp nhà xưa ấy là Lan, con gái út của bà cụ: Chị nhận ngay ra Kiên, chị
nhớ cả cái biệt hiệu "thần sầu trứ danh của anh hồi đó nữa. Vậy mà Kiên thậm
chí không hề nhớ là đã từng có một cô bé nào đó sống ở đây hồi ấy "Lúc ấy em mới chưa đầy mười ba, vẫn đang
chú cháu với các anh... mới lại con gái đồng rừng xấu xí nhút nhát...", chị
nói. Nhưng bây giờ trước mắt anh là một thiếu phụ mảnh dẻ, cặp mắt to đượm buồn
và vẻ quyến rũ thầm lén.
Chị ứa nước mắt khi được Kiên cho hay
rằng, Quang và Hùng, hai người cùng tổ tam tam với anh đều đã nằm lại trong chiến
tranh. "Thời buổi ác nghiệt - Chị nói - và dài quá là dài, cuốn đi mất biết
bao nhiêu là người... bao nhiêu là lượt tân binh đã về đóng ở nhà em, gọi mẹ em
là mẹ, coi em là em, thế mà chỉ mỗi anh trở lại. Hai anh trai của em, các bạn học
của em và cả anh ấy nhà em nữa đều lứa đàn em của các anh, đi bộ đội sau các
anh bao nhiêu năm, nhưng chẳng ai thoát về được cả."
Chị đưa anh lên đồi viếng mộ bà mẹ.
Sau trận mưa chiều màu cỏ xanh mướt nước trên Đồi Mơ thắm hồng ánh đỏ của ng
ráng. Dưới đồi có con sông chảy lượn qua và qua những đám cỏ rậm rạp từ trên đồi
có thể nhìn thấy loáng thoáng từng quãng sông uốn khúc lấp lánh ánh phản quang.
Kiên thắp nhang, cúi đầu hồi lâu trước mồ bà mẹ nuôi, bất lực cố hình dung nét
mặt của bà.
- Giá kể hồi đó người ta hẵng gườm gượm,
báo tử lần lượt thưa ra thì có khi mẹ em vẫn còn sống được tới giờ. Không may
là bấy giờ lại hòa bình a xong nhưng chuyện chết chóc họ muốn dứt khoát đâm
thành ác nghiệt. Nhè cũng một ngày, buổi sáng buổi chiều mà gửi hai cái giấy
báo hy sinh hai anh trai của em.
Mẹ em thật như là bị xô ngã, mê thiếp
đi, bằn bặt suốt ba ngày không một lần hồi tỉnh. Mẹ mất đi chẳng nói một lời,
anh ạ...
Bên mồ bà cụ là nấm mộ nhỏ nhoi của
con trai Lan, Lan kể, không khóc:
- Thằng cu nhà em đẻ ra nặng những gần
bốn ký thế mà chỉ sống được có hai ngày Cháu tên Việt, họ Nông. Anh ấy nhà em
người Tày, quê tít đâu trên mạn ngược Hà Giang. Về đóng ở đây được có non một
tháng nên chúng em nào đã kịp cưới xin, cả đến báo cáo cấp chỉ huy cũng chưa.
Đi được nửa năm thì có thư về cho em, cơ mà không phải anh ấy viết, người cùng
tiểu đội viết. Báo tin rằng anh ấy đã hy sinh trên dọc đường qua Lào... Thằng
cu Việt con em còn trong bụng mẹ đã mồ côi cha, có nhẽ vì thế nên cháu chẳng muốn
sống... Đấy, nông nỗi đời em như thế đấy anh ạ. Mỗi năm mỗi xiêu đi. Em cứ ở vậy
Quanh quẩn trong nhà ngoài đồi. Chẳng để ý tới ai, chẳng ai để ý tới, mà cũng lạ
từ sau đợt đơn vị nhà em, Đồi Mơ này không có thêm đợt bộ đội nào về nữa. Rồi
thì hòa bình rồi tới hôm nay, bao năm rồi...
Chị lưu anh lại tối hôm ấy Suốt đêm.
Đêm hè ngắn ngủi. Văng vẳng tiếng
cuốc kêu gọi ngoài xa, mé rừng. Và rì
rẩm bên kia đồi dòng sông trôi. Hôm sau Kiên ra đi từ sáng sớm. Lan tiễn anh
qua đồi Họ đi bên nhau, lặng lẽ. Mặt trời đang lên, sương vã dần. Sau một đêm
gương mặt Lan gầy đi, thâm quầng.
- Đã có lần em định đi kinh tế mới bỏ
hẳn đất này vào Nam sinh cơ lập nghiệp
- Lan nói, giọng buồn buồn - Nhưng
không dứt lòng mà đi nổi. Trên kia, hai bà cháu nằm đấy với lại chẳng hiểu sao
em lại cứ nán chờ, chờ mãi, chẳng biết là chờ gì, chờ ai. Không lẽ là chờ đợi
chính anh?
Kiên không thốt nổi nên lời, mắt nhìn
tránh đi. Chả hiểu sao em lại nhận ngay ra anh. So với hồi ấy nom anh khác hẳn...
Mới lại hồi ấy em còn nhỏ oắt. Hay, anh là tình đầu của em mà em không hay Kiên
gượng cười, lòng thắt lại. Gần tới đường cái, anh dừng bước. Nắm nhẹ một bàn
tay của Lan anh nâng lên, cúi xuống, áp môi, chầm chậm hôn rất lâu.
- Em ở lại, bình yên sống, đừng buồn
nhé, em mến thương! Đừng nghĩ xấu về anh.
Âu yếm, Lan vuốt vuốt vai áo anh và
hôn lên mái tóc của anh đã điểm bạc.
- Đừng bận về em. Đời anh rộng mở,
hãy đi và hãy sống cho thỏa... còn em, em sẽ nuôi con nuôi, sẽ sống bình yên.
Giá kể có được với anh... nhưng không, thì cũng gì mà buồn. Coi như cả anh cả
em, ta một lần được trở về với hồi trước, khi tất cả người thân yêu còn sống...
Còn nói ví dụ, tức là em cũng cứ nói phòng thế, bỗng dưng một ngày nào anh gặp
cảnh ngộ không may, thấy đã hết ngả để đi tiếp thì xin anh hãy nhớ ngay rằng,
dù sao cũng còn một nơi, cũng còn một người...
Đồi Mơ đây là nơi anh đã lên đường
chiến đấu lập nghiệp, mai sau nếu anh muốn cũng sẽ là một nơi, một chốn anh về.
Kiên ôm lấy Lan, riết vào ngực.
- Thôi anh đi đi kẻo muộn. Em sẽ nhớ
anh mãi. Còn anh đừng quên hẳn em nhé, anh thân yêu tình cờ của em!
Những bãi cỏ ven đường đã ngập nắng.
Bóng Kiên ngả dài. Anh bước đi, đẩu cúi xuống. Bầu trời mùa hạ cao xanh, buồn
bã. Khi anh ngoảnh lại, Lan còn đứng đó trông theo. Nhưng một lần nữa, anh
ngoái nhìn, bóng Lan đã khuất sau đồi.
Mấy năm sau, một chiều nọ, cũng đang
hè, trên đường từ biên giới trở về Hà Nội, chiếc com măng ca chở Kiên và nhóm
phóng viên trong tòa soạn chạy chéo qua ngả Bắc Giang, miền bán sơn địa nhấp
nhô đồi gò, khe lũng và những vạt rừng thưa. Trong xe dần dần chỉ còn Kiên thức
cùng người lái. Gió lướt dài mát rượi.
Hai bên đường từ các khe ngòi um tùm
hơi đất mềm mại lan ra, toàn bộ không gian đất trời tĩnh lặng một khối lam chiều
hoang vắng.
Trong lòng Kiên chợt thấy nao lên một
nỗi buồn đơn giản, xót xa choáng ngợp. Phải, chính là ở đây "Vẫn còn một
nơi, vẫn còn một người!! - Lời ước hẹn buồn bã và vô vọng ngày nào vẳng lên gợi
cho anh nhớ rằng cuộc đời mình thế là đã hết rồi, đã hết cả chút dư âm cuối
cùng. Bao nhiêu quãng đời yêu dấu với bao người thân yêu nay đều đã biệt tăm
tích mà anh chẳng hề lưu giữ được gì, đã để phí hoài tất cả. Có thể nói rằng
trong nhiều năm qua anh đã sống mà chẳng hề ngoái nhìn lại. Không có dịp và
cũng chẳng có nhu cầu, ngày tháng công việc cứ xô trào lên che lấp hết. Giờ thì
đã muộn mất rồi. Anh nhắm mắt lại và một cảm giác nghén nghẹn lìm lịm lặng lẽ
dìm tim anh xuống. Tuy nhiên không phải là niềm tuyệt vọng...
Tác giả: Bảo Ninh (tên thật Hoàng Ấu Phương), là một cựu chiến binh, nhập ngũ năm 17 tuổi (1969) và chiến đấu ở mặt trận Tây Nguyên. Sau chiến tranh, ông tham gia công tác quy tập hài cốt liệt sĩ, một công việc đầy ám ảnh.
Thời Tác phẩm được viết vào năm 1987, trong bối cảnh văn học Việt Nam bước vào giai đoạn Đổi mới, khi các nhà văn bắt đầu có xu hướng nhìn nhận chiến tranh một cách chân thực và đa chiều hơn, thoát khỏi lối mòn lý tưởng hóa.
Ban đầu có tên là "Thân phận của tình yêu".Được xuất bản lần đầu tiên tại Việt Nam vào năm 1990 với tên "Nỗi buồn chiến tranh".
Tác phẩm đã đoạt giải của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991 (nhưng sau đó giải thưởng bị thu hồi do phản đối). Tác phẩm từng bị cấm phát hành trong nước (khoảng 1993–2005) nhưng vẫn lưu hành không chính thức, sau đó được phép tái bản trở lại.
🗣️ Các ý kiến xung quanh
"Nỗi buồn chiến tranh" là một trong những tác phẩm gây tranh cãi lớn nhất trong văn học Việt Nam đương đại, đồng thời lại được quốc tế đón nhận nồng nhiệt.
1. Ý kiến ủng hộ và đánh giá cao (Trong nước và Quốc tế)
Tính nhân bản và phản chiến sâu sắc: Tác phẩm không tập trung vào chiến công, anh hùng ca, mà đi sâu vào mặt trái, sự hủy diệt của chiến tranh đối với tâm hồn, nhân tính của con người, bất kể phe thắng hay thua.
Vinh danh Quốc tế: Được dịch ra nhiều thứ tiếng và được giới phê bình quốc tế xem là "cuốn tiểu thuyết xúc động nhất về chiến tranh Việt Nam" và "thành tựu lớn nhất của văn học Đổi mới".
2. Ý kiến phản đối và tranh cãi
Phê phán cách nhìn phi anh hùng: Một bộ phận công chúng và phê bình cho rằng tác phẩm đã "hạ thấp tính anh hùng" của quân đội và "nhen nhóm sự lật sử" thông qua việc tập trung quá nhiều vào nỗi buồn, sự tàn khốc, và sự đổ vỡ (như mối tình Kiên - Phương).
"Phủ nhận tính chính nghĩa": Có ý kiến cực đoan suy diễn rằng việc viết về nỗi buồn và mất mát là "phản chiến" và phủ nhận tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, mặc dù các nhà văn, nhà phê bình khác khẳng định tác phẩm chỉ là cái nhìn trung thực, nhân văn từ góc độ người lính, không phủ nhận chiến công.

0 comments Blogger 0 Facebook
Post a Comment