Những người yêu thơ tình, không ai không biết đến bài thơ "Màu tím hoa
sim đầy xúc động". Đằng sau đó là một câu chuyện còn sâu sắc hơn, đau
đáu hơn của tác giả Hữu Loan.
Xin trích đăng những dòng tự thuật của chính nhà thơ Hữu Loan:
"Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách
đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa
có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh
hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh
Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.
Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài,
để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi
không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài
thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến
nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu
khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ
Thiện và…tôi – Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy
học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời
về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc
Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông
Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên.
Ở Thanh Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường
ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham Kỳ là
một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng
khác như người nhà.
Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó
mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em
chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi.
Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí
tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời.
Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm
thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má.
Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng
thì cứ y như một “bà cụ non”.
Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm
cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh
mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa,
em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có lần tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh
nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền,
em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn
tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không
nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi
đọc thơ…
Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn
buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà
không ai đồng ý: “Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không
chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin
phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một
con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và
bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì.
Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…
Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
- Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
- Ngọt quá!
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với
tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim
ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười.
Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ
một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến.
Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo.
Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và
mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy
trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi
và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê
lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại,
khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em
cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu
làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc
hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi.
Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau lắm nhưng tôi
vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau
này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm
ngầm ”soạn kịch bản”.
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt
đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "yêu nhau,
thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”.
Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa
là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông
Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu
ruộng.
Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao
giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên
đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.
Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em
đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu
quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..
Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì
lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba
tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm
thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra
giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại
tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối!
Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri
kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm
qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong
lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần
chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn…
Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có
đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ
chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang
đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước,
tôi lấy bút ra ghi chép.
Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
“Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói.
Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương,
viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa…
Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến
tranh.
Đó là bài thơ Màu tím hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là
Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông
vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy”
thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi
dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên
tôi viết mới nổi những câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim…
Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều
không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang
tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời... từ giã văn đàn về quê làm ruộng,
một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì
trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều...
Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá!
Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình
yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình.
Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…
Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa
được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông…
Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là
phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao
lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi
đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý...
Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn
họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng
gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau
để đủn hay kéo.
Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi
cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản...
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho
đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc.
Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa
chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi
thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ
sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa.
Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga
Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa
chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ
đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước.
Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền
gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và
chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm
lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng
khen ngợi để vinh danh ông .
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Gia đình ông
bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết
nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách.
... Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều
lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai
Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem
luốc....
Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô
kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức
và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ
đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm
bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất
nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô
làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong
bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no…
Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu
nội ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến
thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ
tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ...
Năm 1988, tôi "tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở
chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo
chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ
chức.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu tím hoa Sim
của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài
sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90
triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu
đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ
khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ
khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán".
Nhà thơ Hữu Loan
Nàng có ba người anhĐi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê ...
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh ...
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.
Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu
0 comments:
Post a Comment