Trong cuộc họp báo đầu tiên bên lề
kỳ họp quốc hội thường niên Trung Quốc, ông Vương Nghị, ngoại trưởng Trung Quốc
có nói về Biển đông : “... Tổ tiên của chúng tôi đã hoạt động ở đây trong nhiều
thế hệ ...”.
Biển Đông, trong đó có quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Hai Quần đảo này được Pháp trao trả chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tiếp quản năm 1956. Lợi dụng thời điểm rối ren ở Đông Dương, năm 1956 Trung Quốc xua quân chiếm đóng một nửa quần đảo Hoàng Sa, chúng hoàn thành việc đánh chiếm Hoàng Sa vào năm 1974 bằng lực
lượng Hải quân và Không quân.
Quần đảo Trường Sa của Việt Nam bị
Trung Quốc đánh chiếm vào ngày 14/3 năm 1988 trong thời điểm Việt Nam gặp khó khăn về kinh tế, và đặc biệt là lúc cả nước đang tổ chức Quốc tang chủ tịch HĐBT Phạm Hùng. Tại trận đánh này Trung Quốc đã
huy động tàu quân sự bắn chết 64 lính công binh của Việt Nam.
Nếu đúng như lời ông Vương Nghị
nói “Tổ tiên của chúng tôi đã hoạt động ở đây nhiều thế hệ” thì tổ tiên mà ông
nói là người Việt Nam và như
vậy, dù khó tin nhưng cũng phải tin rằng Tổ tiên ông Vương Nghị là người Việt Nam!
(Ảnh: Internet)
Nguồn Internet - Các bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đều cho thấy các Nhà nước Việt Nam trong lịch sử và cho tới nay đã thực thi chủ quyền ở đây ít ra từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo chưa hề thuộc chủ quyền của bất cứ nước nào. Từ đó Việt Nam đã thực hiện việc xác lập và thực thi chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên tục và hòa bình.
Nguồn Internet - Các bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đều cho thấy các Nhà nước Việt Nam trong lịch sử và cho tới nay đã thực thi chủ quyền ở đây ít ra từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo chưa hề thuộc chủ quyền của bất cứ nước nào. Từ đó Việt Nam đã thực hiện việc xác lập và thực thi chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một cách liên tục và hòa bình.
Các bản
đồ Việt Nam
thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo bằng cái tên Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt
huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi.
Nhiều
tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư (thế kỷ XVII),
Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên (1844 - 1848),
Đại Nam Nhất Thống Chí (1865-1875), các Châu bản nhà Nguyễn (1802-1945)... đều
nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là Bãi Cát Vàng vạn dặm trên Biển
Đông và việc Nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khai thác các quần đảo này.
Nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Đỉnh cao nhất của việc tuyên bố
và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là
vào năm 1816 khi vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt Nam
và tuyên bố chủ quyền.
Trong một thời gian khá dài, người Việt Nam luôn coi quần đảo
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một dải đảo dài hàng vạn dặm trên Biển Đông,
nên gọi là Vạn Lý Trường Sa, hay Đại Trường Sa, Bãi Cát Vàng...
Các chúa Nguyễn cũng như nhà Nguyễn sau này đều có nhiều
hành động liên tục cử người ra cai quản, khai thác các đảo trên cả hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc
Hải để thực thi quyền chủ quyền và khai thác hai quần đảo. Các thể lệ tuyển chọn
người, chế độ khen thưởng, đãi ngộ đối với các đội đều được Nhà nước quy định
rõ ràng. Các đội này được duy trì và hoạt động liên tục từ thời chúa Nguyễn (1558-1783)
đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và nhà Nguyễn. Triều đình Nhà Nguyễn đã cử các tướng
Phạm Quang Ảnh (năm 1815), Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật (các
năm 1834, 1835, 1836) ra Hoàng Sa khảo sát, đo đạc các đảo, khảo sát, vẽ bản đồ,
xây miếu, dựng bia.
0 comments:
Post a Comment